Skip Ribbon Commands
Skip to main content

Kết luận số 01 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp thứ 3

( Cập nhật lúc: 27/09/2021  )

Từ ngày 13 đến ngày 22/9/2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp phiên thứ 3 dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ để cho ý kiến về 06 dự án Luật, việc chuẩn bị kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV và xem xét, quyết định một số nội dung khác thuộc thẩm quyền.


Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ chủ trì phiên họp thứ 3 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Ảnh: Lâm Hiển, Báo ĐBND)

Tổng Thư ký Quốc hội đã ban hành thông báo kết luận số 01 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp về các nội dung sau:

Về dự án Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị: Tiếp tục rà soát, thể chế hóa đầy đủ các chủ trương lớn của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 15/01/2019 của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội (trong đó có nội dung phân tầng bảo hiểm hưu trí tự nguyện) và theo quan điểm phát triển bảo hiểm bao trùm, đa tầng và toàn dân; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư trở lại nền kinh tế, nâng cao năng lực quản lý giám sát của cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các quy định của dự thảo Luật phải thống nhất nguyên tắc xuyên suốt là bảo đảm bình đẳng giữa các bên, bảo vệ quyền lợi cho bên được cung cấp dịch vụ bảo hiểm. Rà soát các quy định liên quan đến chủ thể kinh doanh để sửa đổi phù hợp với yêu cầu thực tiễn hiện nay cũng như thông lệ quốc tế, phù hợp với Luật Doanh nghiệp năm 2020. Hoàn thiện các quy định về kiểm tra, giám sát của Nhà nước bảo đảm chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả, không gây khó khăn, rào cản, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư kinh doanh. Cân nhắc quy định thời gian có hiệu lực của Luật theo hướng rút ngắn để Luật sớm có hiệu lực thi hành (thay vì tháng 7/2023 như dự thảo).

Về dự án Luật Điện ảnh (sửa đổi): Quan điểm, việc sửa đổi Luật Điện ảnh phải tạo được hành lang pháp lý và chính sách đột phá, có tầm nhìn dài hạn để phát triển điện ảnh Việt Nam với tư cách vừa là một ngành văn hóa, nghệ thuật, vừa là một ngành kinh tế trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Đề nghị tiếp tục nghiên cứu, bổ sung các chính sách để phát triển điện ảnh trong môi trường công nghệ số; xây dựng, phát triển hệ sinh thái sản xuất phim; khuyến khích xã hội hóa; huy động các thành phần kinh tế, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia hoạt động điện ảnh; chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển điện ảnh trong nước; chính sách vay vốn hỗ trợ sản xuất phim như một loại hình đầu tư rủi ro… Tiếp tục rà soát các quy định về quản lý nhà nước, nhất là các vấn đề liên quan đến thẩm định, cấp phép phân loại phim. Luật cần có quy định cụ thể về cơ sở điện ảnh; làm rõ đối tượng, điều kiện được tham gia hoạt động điện ảnh

Về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ: Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí về việc giao quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước cho tổ chức chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ, trừ các đối tượng thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh theo Phương án 1 của dự thảo Luật; không tán thành việc thu hẹp đối tượng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ tại Phương án 1 của dự thảo Luật vì có thể làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, giảm vai trò chủ động của cơ quan nhà nước trong phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, đề nghị Chính phủ rà soát, nghiên cứu, bổ sung làm rõ trong dự thảo Luật: Quy định về chuyển đổi số, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong môi trường số, làm rõ mối quan hệ giữa dữ liệu người dùng với bí mật kinh doanh và khả năng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với dữ liệu người dùng; Tăng cường cải cách thủ tục hành chính trong việc thực hiện thủ tục xác lập quyền sở hữu trí tuệ; quy định cụ thể việc quản lý, sử dụng và cập nhật cơ sở dữ liệu về sở hữu trí tuệ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác thông tin sở hữu trí tuệ phục vụ hoạt động nghiên cứu, phát triển kinh tế - xã hội, xác lập và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; Tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy định về chỉ dẫn địa lý, kiểm soát an ninh đối với sáng chế và các quy định cụ thể khác của dự thảo Luật để bảo đảm tính tương thích với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, tính thống nhất, hợp lý và khả thi.

Về dự án Luật sửa đổi, bổ sung Phụ lục – Danh mục chỉ tiêu thống kê quốc gia của Luật Thống kê, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị báo cáo làm rõ ý kiến của đồng chí Chủ tịch Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về 07 nội dung như: chưa có quy định rõ về chế độ kiểm toán nhà nước đối với thống kê Nhà nước và kiểm toán đối với các dịch vụ thống kê ngoài Nhà nước; chưa có những quy định cụ thể về dịch vụ thống kê, hoạt động thống kê và sử dụng thông tin thống kê ngoài hệ thống thống kê Nhà nước; chưa có cơ chế Nhà nước đặt hàng cho các tổ chức do Đảng, Nhà nước thành lập và giao nhiệm vụ thực hiện thống kê và chưa có cơ chế ủy thác hoặc đặt hàng cho những tổ chức này cung cấp các số liệu thống kê cho thống kê Nhà nước; cơ quan thống kê Nhà nước chưa thực sự phát triển dịch vụ thống kê và cung cấp thông tin thống kê; chưa làm rõ trách nhiệm của cơ quan thống kê các cấp từ trung ương đến địa phương và trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan thống kê của Bộ, ngành liên quan; chưa làm rõ cách tính, công bố và thẩm quyền công bố, cung cấp số liệu thống kê cho các cơ quan Đảng, cơ quan của Quốc hội, chính quyền địa phương; Dự thảo Phụ lục, Danh mục chỉ tiêu thống kê đang trình chưa có chỉ tiêu phản ảnh liên kết kinh tế vùng và liên kết ngành, thẩm quyền tính, trách nhiệm cung cấp thông tin thống kê... Do đó, đề nghị Cơ quan soạn thảo và các cơ quan liên quan phối hợp rà soát kỹ không để xảy ra việc chỉ trình Quốc hội sửa Phụ lục chỉ tiêu thống kê, sau đó một thời gian ngắn lại đề nghị sửa Luật.

Về Báo cáo số 310/BC-CP ngày 27/8/2021 của Chính phủ về tình hình thi hành Hiến pháp và thực hiện Nghị quyết số 67/2013/QH13 của Quốc hội về tăng cường công tác triển khai thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành năm 2021: Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá, trong năm qua công tác thi hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết có nhiều chuyển biến tích cực, đạt hiệu lực, hiệu quả, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong thời gian tới, đề nghị Chính phủ có giải pháp cụ thể, quyết liệt để sớm khắc phục những hạn chế, bất cập trong tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết; siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; làm rõ hơn những giải pháp đổi mới, sáng tạo, hiệu quả và những “điểm sáng” trong công tác triển khai thi hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết năm 2021; chỉ rõ, gắn với “địa chỉ” cụ thể các cơ quan chưa hoàn thành trách nhiệm được giao về tham mưu triển khai thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết, nợ đọng việc xây dựng, trình, ban hành văn bản quy định chi tiết; bổ sung đánh giá cụ thể hơn về kết quả kiểm tra, xử lý và tác động, ảnh hưởng đến người dân, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đối với 69 văn bản của các Bộ, ngành, địa phương có quy định trái pháp luật về thẩm quyền, nội dung và 05 văn bản không phải là văn bản quy phạm pháp luật nhưng có chứa quy phạm pháp luật đã được nêu trong Báo cáo của Chính phủ.

Về báo cáo của Chính phủ về kết quả triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 theo Nghị quyết số 88/2019/QH14 của Quốc hội: Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ tập trung chỉ đạo quyết liệt để thực hiện ngay một số giải pháp như: Sơ kết đánh giá việc triển khai thực hiện Chương trình, xác định rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan trong việc chậm thực hiện nhiệm vụ được giao; Kiểm điểm làm rõ, xem xét trách nhiệm cụ thể của các Bộ, ngành trung ương và địa phương có liên quan; Tập trung chỉ đạo, đôn đốc khẩn trương ban hành quyết định đầu tư và các văn bản quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện Chương trình; Xây dựng kế hoạch, lộ trình cụ thể, đặc biệt là xác định rõ những nhiệm vụ cần tập trung giải quyết, ưu tiên công tác chuẩn bị đầu tư để giải ngân nguồn vốn đã được phân bổ năm 2021 và dự kiến năm 2022; Phân cấp mạnh cho địa phương để chủ động trong công tác quản lý, điều hành; Tăng cường kiểm tra, giám sát thực hiện Chương trình và việc chấp hành Nghị quyết của Quốc hội; Rà soát hệ thống văn bản chính sách, pháp luật có liên quan để kịp thời điều chỉnh, bổ sung, tạo cơ chế thuận lợi triển khai thực hiện đồng bộ các Chương trình mục tiêu quốc gia…

Về báo cáo công tác năm 2021 và kế hoạch kiểm toán năm 2022 của Kiểm toán Nhà nước: Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao kết quả đạt được trong 08 tháng đầu năm của Kiểm toán nhà nước trên nhiều lĩnh vực, đã kiến nghị xử lý tài chính 52.095 tỷ đồng; kiến nghị nhiều vấn đề liên quan đến chính sách, pháp luật, góp phần nâng cao kỷ luật tài chính trong lĩnh vực đầu tư công, tài chính công, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; hoàn thành xuất sắc vai trò Chủ tịch ASOSAI 14. Đề nghị Kiểm toán nhà nước lưu ý cần kiểm toán toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động của kiểm toán; xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân có sai phạm và kiến nghị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật; công khai danh mục các đơn vị không thực hiện nghiêm túc các kết luận, kiến nghị của Kiểm toán nhà nước; xây dựng văn bản pháp luật hướng dẫn của Kiểm toán nhà nước. Về dự kiến Kế hoạch kiểm toán năm 2022, đề nghị Kiểm toán nhà nước cần tập trung kiểm toán các chuyên đề, các nội dung phục vụ công tác phê chuẩn quyết toán ngân sách nước, các chuyên đề giám sát của Quốc hội trong năm 2022; tăng cường kiểm toán việc thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách tài chính tiền tệ; những vấn đề liên quan đến an toàn nợ công, bội chi ngân sách, tín dụng, ngân hàng, quản lý các dự án BOT; kiểm toán quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Đồng thời, xem xét, tiến tới kiểm toán toàn diện hoặc lồng ghép vào các cuộc kiểm toán cụ thể để đánh giá một số nội dung như: quản lý, sử dụng nguồn tồn ngân tại Kho bạc nhà nước; sử dụng quỹ cải cách tiền lương cho đầu tư xây dựng cơ bản; phát hành trái phiếu doanh nghiệp; thị trường chứng khoán; kiểm toán việc huy động và sử dụng các nguồn lực phục vụ cho công tác phòng, chống dịch và đánh giá việc thực hiện các chính sách, các gói cứu trợ thực hiện trong thời gian qua; hạn chế kiểm toán các dự án đầu tư xây dựng cơ bản còn đang dở dang, nhất là các dự án có yếu tố nước ngoài...

Về dự thảo Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Thanh Hóa: Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành sự cần thiết ban hành Nghị quyết này, đồng thời nhất trí trình Quốc hội cho phép tỉnh Thanh Hóa được thí điểm áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù cụ thể như: (1) Được vay với tổng mức dư nợ vay không quá 60% số thu ngân sách tỉnh được hưởng theo phân cấp. Tổng mức vay và bội chi ngân sách tỉnh hàng năm do Quốc hội quyết định; (2) Hằng năm, ngân sách trung ương bổ sung có mục tiêu cho tỉnh không quá 70% số tăng thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn so với dự toán được Thủ tướng Chính phủ giao nhưng không vượt quá số tăng thu hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu qua Cảng biển Nghi Sơn so với thực hiện năm trước và ngân sách trung ương không hụt thu (không bao gồm thuế giá trị gia tăng của hàng hóa nhập khẩu để đầu tư hình thành tài sản cố định hoặc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu được ngân sách trung ương hoàn lại thuế giá trị gia tăng) để đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật mang tính chất trọng điểm, liên kết, hoàn thành việc di dân, tái định cư trong Khu kinh tế Nghi Sơn; (3) Ngân sách tỉnh được hưởng 50% khoản thu tiền sử dụng đất khi bán tài sản công gắn liền trên đất theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công do các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc trung ương quản lý trên địa bàn tỉnh (trừ các cơ quan, đơn vị thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh) để đầu tư hạ tầng kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ đầu tư công của tỉnh; (4) Thí điểm thực hiện chính sách phí, lệ phí trên địa bàn tỉnh theo hướng: Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định áp dụng trên địa bàn tỉnh các loại phí, lệ phí chưa được quy định trong Danh mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Luật Phí và lệ phí; điều chỉnh mức hoặc tỷ lệ thu phí, lệ phí đã được cấp có thẩm quyền quyết định đối với các loại phí, lệ phí được quy định trong Danh mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Luật Phí và lệ phí; (5) Tỉnh Thanh Hóa được phân bổ thêm 45% theo tỷ lệ phần trăm số chi tính theo định mức dân số theo Nghị quyết số 01/2021/UBTVQH15 ngày 01 tháng 9 năm 2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2022 và trong thời gian thực hiện Nghị quyết này; (6) Hội đồng nhân dân tỉnh được quyết định chuyển mục đích sử dụng đất rừng đặc dụng và đất rừng phòng hộ đầu nguồn dưới 50 héc ta; đất rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay, chắn sóng, lấn biển, bảo vệ môi trường dưới 500 héc ta; đất rừng sản xuất dưới 1.000 héc ta; đất trồng lúa thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ; (7) Trên cơ sở đồ án quy hoạch xây dựng khu chức năng, quy hoạch chung đô thị trên địa bàn tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Thủ tướng Chính phủ quyết định việc phân cấp cho Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện phê duyệt điều chỉnh cục bộ các quy hoạch trên theo trình tự, thủ tục do Thủ tướng Chính phủ quy định và báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện; (8) Về áp dụng pháp luật, trường hợp có quy định khác nhau giữa Nghị quyết này với luật, với nghị quyết khác thì áp dụng theo quy định của Nghị quyết này. Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau có quy định cơ chế, chính sách ưu đãi thuận lợi hơn Nghị quyết này thì áp dụng theo quy định của văn bản đó. Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022 và thực hiện trong 05 năm.

Về việc chuẩn bị kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị bổ sung các nội dung: Trình Quốc hội xem xét, thông qua các dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển các tỉnh: Thừa Thiên Huế, Thanh Hóa, Nghệ An. Đối với dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực, Luật Doanh nghiệp, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Hải quan, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thi hành án dân sự, nếu xác định rõ các nội dung là cấp thiết cần phải xem xét sớm để tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn và được chuẩn bị kỹ lưỡng, bảo đảm chất lượng thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ bố trí thời gian để cho ý kiến tại phiên họp tháng 10/2021. Đối với việc bổ sung các dự án quan trọng quốc gia, đề nghị Chính phủ chuẩn bị thật kỹ lưỡng, bảo đảm chất lượng, đúng trình tự, thủ tục theo quy định, trình Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Về nội dung chất vấn và trả lời chất vấn, trên cơ sở ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định nhưng cần cân nhắc kỹ những vấn đề phù hợp với việc cả nước đang thực hiện các nhiệm vụ chính liên quan đến công tác phòng, chống dịch; Thống nhất lựa chọn phương án Quốc hội họp trực tuyến kết hợp với họp tập trung tại Nhà Quốc hội, chia thành 02 đợt, đồng thời dự phòng phương án nếu dịch COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp tại thời điểm diễn ra đợt 1 của kỳ họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định việc họp trực tuyến toàn bộ thời gian còn lại của kỳ họp.

Về đề án bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất: An ninh nguồn nước là loại hình an ninh phi truyền thống, liên quan mật thiết đến an ninh quốc gia và là vấn đề lớn nên đề nghị Ban Cán sự đảng Chính phủ hoàn chỉnh Đề án và khẩn trương báo cáo Bộ Chính trị để xin ý kiến chỉ đạo về các nội dung quan trọng của Đề án. Nội dung Đề án cần phân tích, đánh giá kỹ các hạn chế, thách thức về an ninh nguồn nước và có giải pháp khắc phục phù hợp. Quan điểm, mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể cần xác định rõ ràng, phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm. Xác định nguồn lực từng giai đoạn của Đề án để cân đối, bố trí, đảm bảo tính khả thi.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khẩn trương triển khai thực hiện nghị quyết, kết luận của phiên họp./.

Ái Vân (tổng hợp)
ALBUM ẢNH


THỐNG KÊ TRUY CẬP